Tình hình chăn nuôi tháng 9/2023

Tình hình chăn nuôi tháng 9/2023

TÌNH HÌNH CHUNG

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 9 nhìn chung diễn ra trong điều kiện thuận lợi. Tình hình chăn nuôi trong 9 tháng năm 2023 không có biến động lớn, chăn nuôi lợn đạt kết quả tích cực dù vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, chăn nuôi gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 3632,9 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.

Tình hình chăn nuôi trâu, bò trong 9 tháng năm 2023 không có biến động lớn, ngành chăn nuôi lợn có kết quả sản xuất tích cực, dù vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, chăn nuôi gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Người chăn nuôi yên tâm sản xuất khi giá bán ở mức có lãi.

Tình hình cụ thể như sau:

+ Chăn nuôi trâu, bò:

Tình hình chăn nuôi trâu, bò trong 9 tháng năm 2023 không có biến động lớn, đàn trâu tiếp tục xu hướng giảm do diện tích chăn thả thu hẹp, hiệu quả kinh tế không cao. Đàn bò tại nhiều tỉnh cũng đang giảm dần do nuôi bò không mang lại hiệu kinh tế cao như những năm trước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 giảm khoảng 1,1%, tổng số bò tăng khoảng 0,6% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 90,6 nghìn tấn, tăng 0,1%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 373,4 nghìn tấn, tăng 2,4%; sản lượng sữa bò tươi 9 tháng ước đạt 892,5 triệu lít, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2022. Sản lượng sữa bò 9 tháng năm 2023 đạt thấp do sản lượng sữa của Sơn La và TP. Hồ Chí Minh giảm so với cùng kỳ (sản lượng sữa bò của 2 tỉnh này chiếm gần 30% tổng sản lượng cả nước).

+ Chăn nuôi lợn:

Trong 9 tháng đầu năm 2023, mặc dù vẫn đối mặt với nhiều khó khăn nhưng chăn nuôi lợn vẫn phát triển. Giá thịt lợn hơi trong 9 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước. Đến trung tuần tháng 9/2023, giá bán thịt lợn hơi tại các địa phương mặc dù đã tăng nhẹ so với các tháng trước nhưng người chăn nuôi chưa tái đàn do vẫn lo ngại nguy cơ bùng phát lại các ổ dịch tả lợn châu Phi. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 3632,9 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.

+ Chăn nuôi gia cầm:

Tổng đàn và sản lượng gia cầm 9 tháng tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Người chăn nuôi yên tâm sản xuất khi giá bán ở mức có lãi 3. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 tăng khoảng 3,5% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượngthịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 1737,2 nghìn tấn, tăng 6,0%; sản lượng trứng gia cầm 9 tháng ước đạt 14,2 tỷ quả, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2022.

* Theo kết quả điều tra chăn nuôi (kỳ 01/7/2023) của Tổng cục Thống kê: Tổng đàn lợn cả nước tại thời điểm 1/7/2023 đạt khoảng 25,5 triệu con, tổng đàn gia cầm cả nước đạt mức 549,7 triệu con. Kết quả khảo sát xu hướng chăn nuôi của 26,8 nghìn hộ nuôi lợn trên toàn quốc cho thấy: 2,88% số hộ dự kiến mở rộng sản xuất; 89,25% số hộ dự kiến ổn định sản xuất trong thời gian tới; 5,23% số hộ thu hẹp sản xuất; 2,68% số hộ không nuôi lợn nữa.

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong 9 tháng năm 2023 đạt 369 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2022. Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi trong 9 tháng năm 2023 đạt 2,58 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2022.

Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 21/9/2023, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cụ thể như sau:

– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 9/2023, cả nước không có báo cáo phát sinh ổ dịch cúm gia cầm (CGC). Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 16 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 09 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Tiền Giang, Sóc Trăng; số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 30.712 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 52,94%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 60,45%. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh CGC.

– Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 9/2023, cả nước phát sinh 38 ổ dịch tại 12 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 528 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 343 ổ dịch tại 38 tỉnh, thành phố; tổng số lợn bị tiêu hủy là 12.236 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 69,18%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 77,03%. Hiện nay, cả nước có 73 ổ dịch thuộc 40 huyện của 14 tỉnh chưa qua 21 ngày.

– Dịch viêm da nổi cục: Trong tháng 9/2023, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Đắk Lắk. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 86 ổ dịch tại 11 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 389 con, số gia súc tiêu hủy là 89 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 64,3%; số trâu, bò phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 80,3%. Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch tại các tỉnh Đắk Lắk, Bến Tre chưa qua 21 ngày.

– Dịch lở mồm long móng: Trong tháng 9/2023, có báo cáo phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Đồng Tháp. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 20 ổ dịch tại 10 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 645 con, số gia súc tiêu hủy là 26 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch tại tỉnh Đồng Tháp chưa qua 21 ngày.

– Bệnh tai xanh: Trong tháng 9/2023, cả nước không có báo cáo phát sinh ổ dịch tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 03 ổ dịch tại tỉnh Cao Bằng; số lợn mắc bệnh là 95 con, số lợn chết và tiêu hủy là 75 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh tai xanh.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

Trên thị trường thế giới, giá thịt lợn nạc giao tháng 10/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm, với mức giảm 1,025 UScent/lb, xuống mức 81,525 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do sức mua ở mức thấp.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 9, giá lợn hơi trên cả nước biến động trái chiều. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg. Cụ thể, Hà Nội và Tuyên Quang cùng giao dịch ở mức 56.000 đồng/kg. Các địa phương khác duy trì thu mua lợn hơi với giá trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg.

Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên ổn định, dao động trong khoảng 55.000 – 57.000 đồng/kg. Trong đó, ở các tỉnh Bình Định, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Ninh Thuận và Bình Thuận đang thu mua lợn hơi với giá 55.000 đồng/kg; ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế và Khánh Hòa đang thu mua với giá 56.000 đồng/kg; các tỉnh còn lại neo ở ngưỡng 57.000 đồng/kg.

Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 55.000 – 58.000 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu là 58.000 đồng/kg – cao nhất khu vực. Lợn hơi tại các tỉnh còn lại được giao dịch trong khoảng 55.000 – 57.000 đồng/kg.

Giá thu mua gà thịt tại trại hầu hết tăng ở các vùng, miền trong tháng 9. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Bắc tăng khoảng 1.000 – 2.000 đồng/kg, lên mức 58.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Trung tăng 1.000 đồng/kg, lên mức 55.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Nam tăng 1.000 đồng/kg, lên mức 42.000 – 43.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp ở cả ba miền đều tăng 1.000 đồng/kg, lên 31.000 đồng/kg.

Giá trứng gà ở miền Bắc ổn định ở mức 2.400 – 2.500 đồng/quả. Giá trứng gà ở miền Trung giữ mức 2.500 – 2.800 đồng/quả. Giá trứng gà ở Đông Nam bộ và Tây Nam bộ giảm 200 đồng/quả, xuống 2.000 – 2.200 đồng/quả.

Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam

THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

+ Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 9 ước đạt 45 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 9 tháng đầu năm 2023 đạt 369 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 101 triệu USD, tăng 23,6%; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 106 triệu USD, tăng 35,9%.

+ Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi:

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc của cả nước trong 9 tháng năm 2023 đạt 894,65 triệu USD, tăng 3,8% so với 9 tháng năm 2022; trong đó riêng tháng 9/2023 đạt 102,26 triệu USD, giảm 26,8% so với tháng 8/2023 nhưng tăng 43,5% so với tháng 9/2022.

Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Trung Quốc – thị ttường lớn nhất, tháng 9/2023 giảm 40,5% so với tháng 8/2023 nhưng tăng mạnh 92,6% so với tháng 9/2022, đạt trên 46 triệu USD, tính chung kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này 9 tháng năm 2023 đạt 435,84 triệu USD, tăng mạnh 30% so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 48,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.

Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Campuchia – thị trường lớn thứ 2 tăng 8,5% so với cùng kỳ, đạt 133,1 triệu USD, chiếm 14,9% trong tổng kim ngạch; riêng tháng 9/2023 tăng 4,1% so với tháng 8/2023 và tăng 38,1% so với tháng 9/2022, đạt 16,07 triệu USD.

Thị trường Malaysia xếp thứ 3 về kim ngạch, đạt 86,26 triệu USD, tăng 33,6% so với cùng kỳ; riêng trong tháng 9/2023xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường này giảm 7,4% so với tháng 8/2023 nhưng tăng mạnh 39,8% so với tháng 9/2022, đạt 11,44 triệu USD.

Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường FTA – RCEP đạt 744,7 triệu USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ, chiếm 83,2% trong tổng kim ngạch. Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường FTA CPTTP đạt 105,18 triệu USD, tăng 8,9%, chiếm 11,8%.Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Đông Nam Á đạt 271,28 triệu USD, tăng 5,1%, chiếm 30,3%.

Xuất khẩu thức ăn gia súc 9 tháng năm 2023

(Tính toán từ số liệu công bố ngày 13/10/2023 của TCHQ)ĐVT: USD

Thị trường xuất khẩu thức ăn gia súc 9 tháng năm 2023

+ Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi trong tháng 9 ước đạt 298 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 9 tháng đầu năm 2023 đạt 2,58 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 891 triệu USD, giảm 10,8%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,02 tỷ USD, giảm 3,6%.

+ Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Trong 9 tháng năm 2023 nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt trên 3,82 tỷ USD, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu về Việt Nam tháng 9/2023giảm23,5% so với tháng 8/2023nhưng tăng2,1% so với tháng 9/2022, đạt 420,11 triệu USD.

Tính chung trong 9 tháng năm 2023 nhập khẩu nhóm hàng này đạt trên 3,82 tỷ USD, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu nhiều nhất từ thị trường Achentina, chiếm 28,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt trên gần 1,1 tỷ USD, giảm 12,6% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó riêng tháng 9/2023 đạt 115,98 triệu USD, giảm mạnh 50,6% so với tháng 8/2023và giảm28% so với tháng 9/2022.

Đứng thứ 2 là thị trường Brazil chiếm tỷ trọng 17,9%, đạt gần683,42 triệu USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ; riêng tháng 9/2023 nhập khẩu từ thị trường này đạt 123,13 triệu USD, tăng mạnh 38,5% so với tháng 8/2023 và tăng91,6% so với tháng 9/2022.

Tiếp đến thị trường Mỹ trong tháng 9/2023 nhập khẩu giảm2,4% so với tháng 8/2023nhưng tăng 17,7% so với tháng 9/2022, đạt 57,98 triệu USD; cộng chung cả 9 tháng năm 2023 nhập khẩu từ thị trường này tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2022; đạt 534,97 triệu USD, chiếm 14% trong tổng kim ngạch.

Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu từ thị trường EU trong 9 tháng năm 2023 giảm 39,7% so với 9 tháng năm 2022, đạt 214,83 triệu USD; Nhập từ thị trường Đông Nam Á giảm 17,3%, đạt 230,47 triệu USD.

Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 9 tháng năm 2023

(Theo số liệu công bố ngày 13/10/2023 của TCHQ)ĐVT: USD

Nhập khẩu thức ăn gia súc 9 tháng năm 2023 đạt trên 3,82 tỷ USD

+ Nhập khẩu đậu tương:

9 tháng năm 2023 cả nước nhập khẩu trên 1,47 triệu tấn đậu tương, trị giá trên 934,98 triệu USD, giá trung bình 635,4 USD/tấn.

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 9/2023 đạt 97.006 tấn, tương đương 58,24 triệu USD, giá trung bình 600,4 USD/tấn, giảm 41,6% về lượng và giảm 39,7% kim ngạch so với tháng 8/2023, nhưng giá tăng 3,2%; so với tháng 9/2022 cũng giảm 14,9% về lượng và giảm 27,3% về kim ngạch và giá giảm 14,5%.

Tính chung 9 tháng năm 2023 cả nước nhập khẩu trên 1,47 triệu tấn đậu tương, trị giá trên 934,98 triệu USD, giá trung bình 635,4 USD/tấn, tăng 5,3% về lượng, nhưng giảm 4,1% kim ngạch và giảm 8,9% về giá so với 9 tháng năm 2022.

Đậu tương nhập khẩu về Việt Nam từ thị trường Brazil nhiều nhất, trong tháng 9/2023 giảm mạnh 53,3% về lượng và giảm 52,8% kim ngạch so với tháng 8/2023, giá tăng nhẹ 1%, đạt 66.828 tấn, tương đương 38,24 triệu USD, giá 572,2 USD/tấn; Tính chung, 9 tháng năm 2023 nhập khẩu đậu tương từ thị trường này đạt 802.311 tấn, tương đương 477,49 triệu USD, chiếm 54,5% trong tổng lượng và chiếm 51,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 7,7% về lượng, giảm 21,7% về kim ngạch, giá giảm 15,2% so với cùng kỳ năm trước. 

Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Mỹ – thị trường lớn thứ 2 trong 9 tháng năm 2023 đạt 521.360 tấn, tương đương 355,8 triệu USD, giá 682,4 USD/tấn, chiếm 35,4% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, tăng 17,4% về lượng, tăng 17,7% về kim ngạch và giá tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước.

Ngoài ra, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada 9 tháng năm 2023 đạt 80.666 tấn, tương đương trên 60 triệu USD, giá 743,8 USD/tấn, tăng 6% về lượng, tăng 7% về kim ngạch và giá tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ thị trường Campuchia đạt 453 tấn, tương đương 351.050 USD, giá 774,9 USD/tấn, giảm mạnh gần 93% cả về lượng và kim ngạch nhưng tăng 2,8% về giá.

Nhập khẩu đậu tương 9 tháng năm 2023

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/10/2023 của TCHQ)

Nhập khẩu đậu tương 9 tháng năm 2023 trị giá trên 934,98 triệu USD

+ Nhập khẩu lúa mì:

9 tháng năm 2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 3,32 triệu tấn, tương đương trên 1,16 tỷ USD.

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9/2023 cả nước nhập khẩu 225.376 tấn lúa mì, tương đương 69,19 triệu USD, giá trung bình 307 USD/tấn, giảm cả về lượng, kim ngạch và giá so với tháng 8/2023, với mức giảm tương ứng 37,5%, 39,8% và 3,7%. So với tháng 9/2022 thì giảm 37,3% về lượng, giảm 54,4% kim ngạch và giảm27,3% về giá.

Tính chung cả 9 tháng năm 2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt 3,32 triệu tấn, tương đương trên 1,16 tỷ USD, tăng2,6% về khối lượng, nhưng giảm6,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022, giá trung bình đạt 349,4 USD/tấn, giảm9%.

Trong tháng 9/2023 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Australia tiếp tục tăng 6,8% về lượng, tăng 4,4% về kim ngạch nhưng giảm 2,2% về giá so với tháng 8/2023, đạt 168.517 tấn, tương đương 52,02 triệu USD, giá 308,7 USD/tấn; so với tháng 9/2022thì giảm43,3% về lượng, giảm56,6% kim ngạch và giảm 23,5% về giá. Tính chung cả 9 tháng, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Australia, chiếm 73,2% trong tổng lượng và chiếm 71,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt 2,43 triệu tấn, tương đương 833,94 triệu USD, giá trung bình 343 USD/tấn, tăng1,5% về lượng, nhưng giảm 9,6% về kim ngạch và giảm 10,9% về giá so với cùng kỳ năm 2022.

Tiếp sau đó là thị trường Mỹ chiếm 7,9% trong tổng lượng và chiếm 8,9% trong tổng kim ngạch, đạt 262.792 tấn, tương đương 103,43 triệu USD, giá trung bình 393,6 USD/tấn, tăng 38% về lượng, tăng 14,6% kim ngạch nhưng giảm 17% về giá so với cùng kỳ năm 2022

Thị trường Brazil đứng thứ 3 đạt 261.611 tấn, tương đương 95,82 triệu USD, giá 366,3 USD/tấn, giảm 19% về lượng, giảm 14,9% kim ngạch nhưng tăng 5% về giá so với cùng kỳ, chiếm 7,9% trong tổng lượng và chiếm 8,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước.

Nhập khẩu lúa mì 9 tháng năm 2023

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/10/2023 của TCHQ)

Nhập khẩu lúa mì trên 70% từ thị trường Australia

+ Nhập khẩu ngô:

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 9 tháng năm 2023 đạt trên  6,51 triệu tấn, trị giá trên 2.03 tỷ USD, giá trung bình 312 USD/tấn, giảm 2,3% về lượng, giảm 14,3% kim ngạch và giảm 12,3% về giá so với 9 tháng năm 2022.

Trong đó, riêng tháng 9/2023 đạt 1,16 triệu tấn, tương đương 318,12 triệu USD, giá trung bình 274 USD/tấn, tăng 8% về lượng và tăng 2,5% kim ngạch so với tháng 8/2023, nhưng giá giảm 5,1%; so với tháng 9/2022 thì tăng mạnh 45,2% về lượng, tăng 15% về kim ngạch nhưng giảm 20,7% về giá.

Achentina là thị trường lớn nhất cung cấp ngô cho Việt Nam trong 9 tháng năm 2023, chiếm trên 37,4% trong tổng lượng và chiếm 36,9% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 2,43 triệu tấn, tương đương trên 748,91 triệu USD, giá 307,6 USD/tấn, giảm mạnh 43,4% về lượng, giảm 51,4% kim ngạch và giảm 14,2% về giá so với 9 tháng năm 2022.

Thị trường lớn thứ 2 là Brazil, trong 9 tháng năm 2023 đạt 2,3 triệu tấn, tương đương 720,48 triệu USD, giá 313,9 USD/tấn, chiếm trên 35% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng mạnh 384,6% về lượng, tăng 355,5% về kim ngạch nhưng giá giảm nhẹ 6% so với 9 tháng năm 2022.

Tiếp đến thị trường Ấn Độ 9 tháng năm 2023 đạt 1,18 triệu tấn, tương đương 365,87 triệu USD, giá 309,8 USD/tấn, chiếm trên 18% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 74% về lượng, tăng 63,5% về kim ngạch, nhưng giá giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

Nhập khẩu ngô 9 tháng năm 2023

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/10/2023 của TCHQ)

Nhập khẩu ngô 9 tháng năm 2023 giảm cả lượng và kim ngạch

Nguồn: http://channuoivietnam.com

Facebook